Nói về mồng một Tết cha, cụ Phan Kế Bính (đỗ cử nhân Hán học năm 1906, là nhà báo vừa có cựu học, vừa có có tinh thần duy tân) đã ghi lại chuyện về mồng một Tết. Cụ viết rằng “sáng mồng một thì làm cỗ cúng gia tiên… Cúng xong thì con cháu ra mừng tuổi ông bà cha mẹ, lạy hai lạy. Ông bà cha mẹ mừng cho con cháu mỗi đứa một vài xu hoặc một vài hào gọi là tiền mừng tuổi… (sách Việt Nam phong tục, 1915). Cúng gia tiên thì chắc chắn là cúng bên nội, nhà cha, theo phong tục xưa. Đó đích thị là mồng một Tết cha vậy.
Màu đỏ là màu phổ biến trong dịp Tết Nguyên đán. Ảnh: ttvn.vn
Chuyện mồng ba Tết thầy liên quan đến tôn sư trọng đạo. Ngày xưa thầy đồ dạy học đa số không có chuyện biên chế hay giáo chức ăn lương nhà nước như bây giờ, trừ trường đặc biệt do triều đình lập ra. Người học trước thông chữ hoặc đỗ đạt dạy cho người học sau. Học trò muốn học thì kiếm buồng cau xin nhập môn và lạy thầy hai lạy. Đủ học trò, thầy chọn ngày tế thánh rồi mở lớp. Học hết chữ thầy này, nếu muốn theo đòi bút nghiên, trò lại tìm thầy nhiều chữ hơn để học lên.
Thu nhập của các thầy đồ là quà cáp của phụ huynh. Có sách xưa đã viết, lúc học có năm ngày Tết, như Tết Nguyên đán, Tết thanh minh, Tết đoan dương, Tết Trung thu, mùa nào thức ấy, hoặc cặp gà thúng gạo, hoặc đường mứt bánh trái, hoặc dăm ba quan tiền, tùy tình đa thiểu mà đem đến lễ thầy.
Đạo lý thầy trò ngày xưa rất trọng, thầy được coi trọng như cha. Nhà thầy có việc hiếu hỉ, thì trò thông qua trưởng tràng, giám tràng (cán bộ lớp), chăm lo như việc của chính nhà mình. Khi thầy quy tiên, học trò cũng để tang ba năm, có điều không phải tang phục, tang chế đầy đủ. Để tang trong bụng gọi là tâm tang. Học trò thành đạt thường giúp đỡ thầy trong cuộc sống. Nhà thầy không có con trai nối dõi cúng tế thì trò phải cúng tế cho đến hết đời mình. Người xưa chọn “mùng ba Tết thầy” là theo cái đạo nghĩa đó.
Ngày nay, về cơ bản đạo nghĩa thầy trò ở VieejtNam vẫn tiếp tục nhưng có khác đi. Tôi nhớ cách đây 25 năm, khi tôi dạy và giúp hướng dẫn một học viên cao học người Hàn Quốc làm luận án thạc sĩ. Khi thành công rồi, bạn ấy phát biểu rằng, cái quý nhất ở Việt Nam là cái sư đạo truyền thống vẫn rất đậm đà.
Tôi thích đoạn viết của cụ Phan Kế Bính về cái sự tiêu cực ngày xưa. Cụ viết: “Còn như mấy ông đồ quèn học hành chưa hiểu vỡ mạch sách, văn chương chưa thuộc đủ lề lối mà đã đi về các vùng nhà quê tìm nơi thiết trường gõ đầu năm ba đứa trẻ nửa mường nửa mán để hộ khẩu cho qua đời. Vậy mà cũng dám lên mặt đạo mạo, động một tí thì bổ cho đồng môn… Ấy là cái mọt của thiên hạ”.
Xưa cũng như nay thôi, nếu đạo nghĩa thầy trò có thay đổi đi thì trước hết, người thầy và thiết chế giáo dục phải xem lại chính mình. Tình thầy trò nằm trong cái tình rộng lớn của con người với nhau. Làm thầy không gì hạnh phúc hơn có nhiều trò giỏi và thân thương trong cuộc đời.
TS Nguyễn Hùng Vĩ
Nguyên Giảng viên khoa Ngữ văn
Đại học Khoa học Xã hội và Nhân Văn, Đại học Quốc gia Hà Nội
Nguồn: vnexpress.net
© 2024 | Tạp chí NƯỚC ĐỨC