Nguyễn Quốc Vương nguyên là giảng viên khoa lịch sử, Đại học sư phạm Hà Nội, tác giả một số cuốn sách viết về giáo dục Nhật. Với tư cách là người đã sống ở Nhật 8 năm, trong đó có nhiều năm làm bán thời gian trong vai trò thông dịch viên cho các nghiệp đoàn, công ty có sử dụng lao động người Việt, cùng luật sư người Nhật hỗ trợ pháp lý cho những người Việt bị tạm giam, tạm giữ ở nước này, anh có cái nhìn rõ ràng về lý do tại sao dù ở nước ngoài lâu, người Việt vẫn cư xử kém văn minh.
Dịch giả Nguyễn Quốc Vương
Do thói quen sinh hoạt, giá trị quan khó thay đổi
Phần lớn người Việt ra nước ngoài khi đã tốt nghiệp trường trung học phổ thông hay đại học. Gần 20 năm sống ở một đất nước đang phát triển đã hình thành trong họ những thói quen vững chắc. Những điều đó có thể bình thường ở Việt Nam, nhưng lại bất thường ở nước ngoài, có thể gây ra rắc rối, thậm chí là vi phạm pháp luật.
Ví dụ ở Việt Nam, chuyện câu cá ở một con sông hay vùng biển nào đó là tự do, nhưng ở Nhật, muốn làm vậy có khi phải xin phép và nộp phí, dù nhỏ thôi cho nghiệp đoàn ngư nghiệp địa phương vì họ quản lý, thả cá giống ra tự nhiên. Truyền thông Nhật từng đưa tin cảnh sát ở Tokyo đã bắt giữ hai người Việt vì đ.ánh bắt cá trên sông bằng lưới có kích cỡ không phù hợp.
Câu cá phải xin phép, theo mùa và theo phương pháp phù hợp
Một thói x.ấu khác của người Việt là ghi “dấu ấn” riêng của mình lên các di tích mỗi khi đi thăm quan. Tại Việt Nam, quy định xử phạt với hành vi viết, vẽ, làm bẩn, làm ô uế di tích lịch sử – văn hóa cũng đã có, nhưng rồi quy định cũng chỉ là quy định. Ra nước ngoài, thói quen này vẫn được nhiều người vô tư “lưu giữ”.
Trên phiến đá tại di tích thành cổ Yonago thuộc tỉnh Tottori – Nhật Bản, hình vẽ nguệch ngoạc gồm ký tự “A”, “HÀO” cùng hai ký hiệu hình ngôi sao và trái tim được phát hiện.
Dù báo chí Nhật chỉ đề cập “đó là 3 chữ cái Latin ‘HAO’ vẽ bậy”, dựa vào hình ảnh được chụp tại hiện trường, nhiều người đoán đây có thể là một chữ tiếng Việt. Hình ảnh này không khỏi khiến mọi người lắc đầu ngao ngán về chuyện kém ý thức của một bộ phận người.
Chữ viết Việt Nam trên di tích Nhật
Một ví dụ khác là người Việt có thói quen mở đài, loa to, hát karaoke vang cả khu phố. Ở Việt Nam có thể có người khó chịu nhưng về cơ bản, hàng xóm sẽ chấp nhận. Tuy nhiên ở Nhật, làm ồn như thế là đủ để cảnh sát tới nhắc nhở, ghi biên bản và xử phạt.
Nếp sống cộng đồng tạo ra nhiều hệ lụy
Người Việt khi ra nước ngoài hay có xu hướng sống co cụm với nhau tạo ra một cộng đồng giống như một ngôi làng nhỏ. Bởi cùng phận xa quê, sự thiếu thốn tình cảm đã khiến những con người chung nguồn gốc, ngôn ngữ, văn hóa đồng cảm và với nhau. Chính vì vậy người Việt có xu hướng sống gần nhau để giao lưu, san sẻ.
Họ có thể thuê cùng một khu nhà, sống trong cùng một khu phố hoặc ở trọ trong một phạm vi địa lý nhỏ hẹp.
Ưu điểm của lối sống này là mọi người có thể giao lưu, thắt chặt tình cảm và giúp đỡ lẫn nhau. Tuy nhiên hệ lụy của nó cũng rất nhiều.
Sống theo cộng đồng để giúp đỡ nhau
Từ quan tâm tới soi mói đời tư, nói x.ấu sau lưng… chỉ cách nhau gang tấc. Rồi khi sống quần tụ bên nhau, người Việt ít có cơ hội giao lưu, tiếp xúc, thâm nhập sâu vào đời sống của người dân bản xứ. Sang nước ngoài, không biết tiếng bản xứ, người Việt dường như vẫn sống ổn bởi được cộng đồng bên này giúp đỡ.
Những cộng đồng kiểu này cũng tạo ra môi trường cho những thói quen sinh hoạt, tư duy tiêu cực tiếp tục bám rễ, phát triển. Xung quanh toàn là người Việt, các thói quen cũng chẳng cần thay đổi, như ở đất quê hương.
Có nhiều khi, chuyện xả rác bừa bãi, làm ồn khi nh.ậu nhẹt, hát karaoke ầm ĩ, hay tệ hơn là đi bắt chim thú hoang về thịt ăn, tr.ốn vé tàu…cũng nảy sinh trong những lần tụ tập hay xuất phát từ môi trường “làng xã” như thế.
Cảnh báo bằng tiếng Việt, cho người Việt ở Nhật
Khả năng thích nghi kém
Nhiều người Việt không có sự chuẩn bị kỹ càng khi ra nước ngoài, và nhiều người không khả năng thích nghi.
Năng lực ngoại ngữ yếu là một trở ngại của người Việt ở nước ngoài. Theo ông Nguyễn Quốc Vương, ở Nhật, tỉ lệ người Việt có thể giao tiếp được bằng tiếng bản địa với người Nhật chỉ chiếm phần vô cùng nhỏ bé. Nhiều du học sinh sang học bằng tiếng Anh và vì thế họ chỉ có thể nói chuyện được với giáo sư hướng dẫn và một vài người làm việc ở bộ phận giao lưu quốc tế.
Nhiều du học sinh Việt Nam chỉ biết tiếng Anh, không rõ tiếng Nhật
Có thanh niên Việt sang Nhật hơn 3 năm vẫn không nói được một câu gì tiếng Nhật ngoài “cảm ơn”, “xin lỗi”, “xin chào” và hoàn toàn không ăn được đồ Nhật. Anh ta phải nhập viện vì không ăn được cơm trong trại tạm giam với lý do “đồ ăn ngọt”.
Luật pháp không cho phép anh ta có thực đơn riêng, và chỉ khi cảnh sát đổi nước tương Nhật bằng muối và anh ta mới ăn trở lại.
Lao động người Việt sang Nhật cũng không quan tâm đến việc học tiếng Nhật nên hầu như không nghe nói được.
Ba hay sáu tháng học tiếng Nhật ở Việt Nam hầu như không có ý nghĩa cho đời sống sản xuất tại nhà máy.
Không nói không viết, không đọc được tiếng Nhật khiến cho người Việt gặp phải vô vàn khó khăn trong đời sống tinh thần và không hiểu được văn hóa bản xứ. Sự thiếu hiểu biết sẽ dẫn đến hành xử sai hoặc không phù hợp.
Nhiều trường hợp người Việt hành xử sai đã bị cảnh sát Nhật điều tra
Cuối cùng, tất cả các nguyên nhân trên tương tác tạo ra kết quả người Việt vi phạm pháp luật nước sở tại ở nhiều mức độ khác nhau. Để rồi tình trạng ấy làm cho nhiều người khác, cho dù không làm gì sai, cũng phải chịu thái độ ph.ân biệt đối xử của người bản xứ.
Đó là một bất lợi rất lớn ngăn cản người Việt phát huy khả năng trong hội nhập cùng cộng đồng quốc tế.
Theo VnExpress
© 2024 | Tạp chí NƯỚC ĐỨC