Điều gì mới xuất hiện trong thực tiễn cũng đối mặt với lực cản. Nhưng những điều mới chứa đựng logic tự nhiên sẽ vượt qua lực cản để tồn tại và phát triển. Golf ở Việt Nam là một thực thể khách quan như vậy.
Sân golf đầu tiên ở Việt Nam được đưa vào Bản đồ quy hoạch tổng thể thành phố Đà Lạt năm 1922, và xuất hiện trên thực địa 10 năm sau đó, cùng thời với sân golf đầu tiên của Thái Lan khoảng năm 1924.
Nhưng ngành công nghiệp golf của Việt Nam bị chậm so với Thái Lan chừng 3-4 thập kỷ, liên quan đến chiến tranh liên miên.
Đầu thập niên 1990, golf hồi sinh ở Việt Nam, nhưng vấp phải nhiều lực cản. Lực cản đầu tiên là tiềm thức. Nhiều người, trong số đó không ít lãnh đạo, cho golf là trò chơi tư sản, phung phí và xa hoa.
Sự chống đối golf đôi lúc lên mức thù địch có căn nguyên từ tâm lý thù ghét sự giàu có. Đó là sự không sòng phẳng với golf ở Việt Nam.
Sự không sòng phẳng này một cách tình cờ được đồng hành với những lập luận phản đối rất có lý. Lập luận đầu tiên là lãng phí đất đai. Một sân golf cần chừng 70-100 ha, là diện tích đất rất lớn.
Một diện tích đất rất lớn lại chỉ dành cho thú chơi của số ít người giàu có, lấy đi một phần đất canh tác, có khi làm biến mất một phần cây trồng, chiếm một phần mặt biển, làm mất sinh kế của một bộ phận người dân, trong khi đất đai thu hồi chỉ được đền bù theo giá nhà nước.
Tất cả đã đẩy sự phản kháng có lúc đến đỉnh điểm, là các cuộc biểu tình chống thu hồi đất để làm sân golf.
Lập luận thứ hai, thêm dầu vào lửa, là vấn đề môi trường: mất rừng phòng hộ, mất nguồn nước ngọt, thuốc trừ sâu cỏ độc hại. Lập luận thứ ba là an ninh lương thực. Lập luận thứ tư là an sinh của dân. Lập luận thứ năm là an ninh quốc phòng... Tất cả hợp lại, "đánh hội đồng" cho golf "lên bờ xuống ruộng".
Nhưng tĩnh tâm nhìn lại thì lỗi không phải của golf. Vấn đề thu hồi đất với giá đền bù nhà nước là do chính sách về thu hồi đất đai. Vấn đề golf chiếm đất lúa, làm mất rừng phòng hộ, hay chiếm lĩnh mặt biển cũng từ chính sách cấp đất. Nếu ở đâu đó có thiếu sót về môi trường là do lỗ hổng về quản lý.
Golf là một môn thể thao.
Đã là thể thao thì ai cũng rồi cũng có quyền tiếp cận. Ví dụ ở nước Mỹ, vào thập niên 1950, golf chỉ dành cho tầng lớp từ trung lưu. Nhưng hiện nay, với khoảng 16.000 sân, 14.000 cơ sở golf, Mỹ có khoảng 37,5 triệu người chơi golf. Phần lớn người dân Mỹ có nguồn tài chính đủ để chơi golf, muốn hay không chỉ là vấn đề sở thích.
Việt Nam hiện có khoảng 80 sân golf với khoảng 50.000 người chơi.
Tại sao nhiều người khi biết đến golf, lại say mê đến mức ví như "ma túy xanh"? Có nhiều lý do giải thích cho sức hấp dẫn của golf. Nhưng có thể lấy một ví dụ, ở tất cả các môn thể thao, ngoài golf, dù là tennis, bóng đá, bóng bàn, bóng chuyền, đua ôtô hay cờ... không bao giờ xảy ra trường hợp, người bắt đầu chơi lại thắng đương kim vô địch thế giới.
Nhưng người mới học golf, có thể thắng được nhà vô địch thế giới, dù đó là huyền thoại Tiger Wood. Với golf, không ai là bất bại. Kẻ vĩ đại nhất có thể bị đánh bại bởi kẻ vô danh. Cơ hội mở rộng cho bất kỳ ai.
Nhìn về mặt tích cực của golf, không có nghĩa là quên đi mặt đối lập. Ngoài những vấn đề tôi đã đề cập ở trên, thì sự hình thành cộng đồng người chơi golf ở Việt Nam cũng kéo theo các căn bệnh cần có "toa thuốc điều trị".
Golf vốn là môn chơi quý tộc.
Tính quý tộc của golf không chỉ nằm trong sự giàu có đắt đỏ, mà còn nằm ở phần quan trọng khác, là văn hóa. Văn hoá golf bao gồm các quy tắc ứng xử, đạo đức. Để cầm gậy chơi, trước hết phải biết luật và cách thức ứng xử trên sân.
Luật golf quy định những điều được làm, những điều không được làm. Luật golf có thể đọc qua rất nhanh. Nhưng thực hành đạo đức thì cần thời gian và nền tảng văn hóa. Trên sân golf, mọi người đều bình đẳng, bất kể là tổng thống hay thứ dân.
Lỗi thường thấy trong một bộ phận mới học chơi golf là tính điểm không chính xác, xuất phát từ hai nguyên nhân, do không nắm được luật, và do cố tình tính sai để có lợi cho mình. Golf đòi hỏi sự trung thực, thể hiện trong cách tự giác ghi điểm của mình mà không phải lúc nào cũng có người giám sát, ngoài người biết tường tận là caddy phục vụ. Từ đây nảy sinh những mâu thuẫn của người mới chơi golf liên quan đến caddy.
Khi người ta có lỗi, điều tự nhiên thường thấy là tìm cách đổ lỗi.
Ở cơ quan thì đổ lỗi cho người dưới quyền. Ở nhà thì đổ lỗi cho vợ con, em út, thậm chí cả mẹ cũng là người hứng chịu. Trên sân golf, caddy là nơi hứng chịu lỗi của người chơi. Nhưng với thời gian, các golfer biết kiềm chế và dần tránh được đổ lỗi cho caddy.
Một mặt tiêu cực khác có trong golf, cũng như mọi môn thể thao khác, là cá độ và thích thắng, dễ dẫn đến không trung thực. Caddy là nơi một số người mới học chơi, có văn hóa ứng xử thấp, dựa vào để kê khai điểm không đúng. Một số kê khai điểm không trung thực nhưng muốn caddy giữ yên lặng; số khác lại muốn tự caddy kê khai không đúng điểm, có lợi cho mình. Nhưng nhược điểm này cũng giảm dần theo thời gian chơi golf gia tăng, vì luật golf xây đắp sự trung thực.
Không trung thực, cá độ, cường quyền, quen đổ lỗi cho người khác là các nguyên nhân làm cho một số người chơi mắng mỏ, thậm chí là thô bạo đánh caddy, mà thực tế đã xảy ra không ít trường hợp.
Người chơi chân chính không bao giờ bao che cho các tay golf vi phạm đạo đức, dù đó là ai. Sự kém đạo đức và văn hóa ứng xử của một số người chơi cần phải xử theo luật golf, bao gồm cả loại bỏ ra khỏi cộng đồng golfer.
Nguyễn Ngọc Chu
© 2024 | Tạp chí NƯỚC ĐỨC